Tiểu sử Trần_Nguyên_Quang

Nguyên Quang sinh ngày 16/2 ÂL năm Hiển Khánh thứ 2 (657), mất vào ngày 5/11 ÂL năm Cảnh Vân thứ 2 (711). Nguyên quán của ông được cho là Cố Thủy, hoặc Yết Dương, hoặc Hà Đông (nay thuộc Sơn Tây), nhưng phần lớn tài liệu cho là Cố Thủy.

Nguyên Quang từ nhỏ đọc khắp kinh thư, làu thông tử sử, tự viết ra binh pháp, xạ pháp (phép bắn tên) mà luyện tập. Năm lên 13, được nạp chức Hương tiến, theo cha là Lĩnh Nam hành quân tổng quản Trần Chính đến nhiệm sở.

Năm 669, Trần Chính mất khi đang ở chức, Nguyên Quang tập chức của cha, nhận phong Tả Ngọc Kiềm vệ Dực phủ Tả lang tướng, lập tức tiến đánh cuộc nổi dậy của người Quảng Đông là Trần Khiêm liên kết với thủ lĩnh người Man là Miêu Tự Thành, Lôi Vạn Hưng đang nhắm vào Triều Dương, đàn áp được.

Năm 681, giặc cướp nổi lên đánh phá làng mạc ven Nam Hải, Tuần Châu tư mã Cao Vương Định nhận lệnh đánh dẹp, truyền hịch gọi Nguyên Quang. Ông theo đường nhỏ tập kích lũy giặc, bắt giết hàng vạn tên, nhờ công được tiến Chính nghị đại phu, Lĩnh Nam hành quân tổng quản.

Năm 683, Nguyên Quang cho rằng khu vực Mân Nam, bắc đến Tuyền Châu [2], nam đến Triều Châu, tây đến Cống Châu, dân cư Man – Hán hỗn tạp, không thể chỉ dùng vũ lực để áp chế, mà còn phải dùng lễ giáo để vỗ về, nên dâng biểu xin lập châu. Năm Thùy Củng thứ 2 (686), Võ Hậu chuẩn tấu, kiến lập Chương Châu (trước gọi là quận Chương Phổ), quản hạt 2 huyện Chương Phổ, Hoài Ân; nhận lệnh làm thứ sử Chương Châu kiêm huyện lệnh Chương Phổ. Trong thời gian Nguyên Quang tại nhiệm, củng cố thủy lợi, phát triển nông nghiệp, tổ chức phủ học, bồi dưỡng nhân tài, khiến cho trăm họ được an cư lạc nghiệp.

Năm 711, các con của Miêu Tự Thành, Lôi Vạn Hưng nổi dậy, Nguyên Quang đưa khinh kỵ đi đánh, do bộ binh chưa đến kịp nên giao chiến bất lợi, bị tướng địch Lam Phụng Cao [3] đâm bị thương, mất trên đường lui quân.